Thật lý thú khi nhận thấy rằng ỏ nước
ngoài, ngay cả ở những nước được coi là cái nôi của nghiên cứu phụ nữ, khái
niệm phụ nữ học còn rất xa lạ. Trong khi đó ỏ Việt nam, môn "phụ nữ
học" đang thu hút sự chú ý, quan tâm của nhiều người, còn bản thân khái
niệm đó đang trở thành quen thuộc.
Ví dụ, ở Hoa Kỳ, một nước có nền độc
lập được tuyên bô' vào năm 1776 mãi tới 1920 phụ nữ mối được quyền bỏ phiếu.
Nghiên cứu phụ nữ (Woman studies) xuất hiện vào cuôì những năm 1960 với tư cách
là một trong những thành tựu to lớn của phong trào phụ nữ đòi bình quyền
(Feminism). Mười lăm năm sau đó nghiên cứu phụ nữ đã trỏ thành một lĩnh vực
giảng dạy và nghiên cứu thu hút tới 2225 chuỵên gia thực hiện 4490 khoá đào tạo
về nghiên cứu phụ nữ tại 995 trường và cơ sở nghiên cứu (Tamar Berkowitz,
1974) . Năm 1989, các cơ sở
đào tạo nghiên cứu của Hoa Kỳ đã đưa ra hơn 500 chương trình đào tạo đại học,
trong số đó có hơn 50 chương trình đào tạo thạc sĩ (MA) và gần 20 chương trình
đào tạo tiến sĩ (Ph.D) về nghiên cứu phụ nữ. Cho tới nay những con số
này đã lớn hơn rất nhiều. Mặc dù vậy, người ta khó có thể tìm thấy tên gọi phụ
nữ học trong các môn học hay chương trình nghiên cứu phụ nữ ở Hoa Kỳ. Tại sao
như vậy? Trưóc khi trả lời hãy xem qua tình hình này ở nước ta.
Ở Việt Nam, ý tưởng nghiên cứu phụ nữ
được thể chế hoá bằng việc thành lập Trung tâm nghiên cứu khoa học về phụ nữ
năm 1987. Đó là một cơ sở nghiên cứu thuộc ữỷ ban Khoa học xã hội, nay là Trung
tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia. Sự ra đời của Trung tâm này có liên
quan tới sự phát triển của phong trào phụ nữ. Nhưng lý do chủ yếu là để đáp ứng
nhu cầu giao lưu thông tin khoa học về phụ nữ ở trong và ngoài nước. Năm
năm sau đó, nghiên cứu khoa học về phụ nữ đã xâm nhập vào một số trường
Đại học lớn ở Hà Nội và Thành phô" Hồ Chí Minh. Và môn học này ngay lập
tức có tên gọi là ”Phụ nữ học" giông như những ngành học, môn học chẳng
hạn như xã hội học, triết học, toán học v.v... Môn "Phụ nữ học" ở
khoa Xã hội và Tâm lý học, Đại học Tổng hợp Quốc gia Hà nội đã có hai khoá thu
hút tối 200 sinh viên. Từ khi ra đời năm 1992 đến nay, Khoa "Phụ nữ học” ở
Đại học Mở -Bán công Thành phố Hồ Chí Minh đã lôi cuốn khoảng 100 người học mỗi
năm.
Vậy nghiên cứu phụ nữ và phụ nữ học
giống và khác nhau ở chỗ nào? Trả lời được câu hỏi này cũng giúp chúng ta hiểu
được tại sao ở Việt Nam nghiên cứu phụ nữ đã được coi là "Phụ nữ học”.
Phụ nữ học là gì? Hỏi một sinh viên mới nhập trường
hay một chuyên gia về khoa học xã hội thì câu trả lời sẽ là: Phụ nữ học là
nghiên cứu phụ nữ. Cách định nghĩa đó thật là ngắn gọn và dễ hiểu. Có lẽ vì thế
mà phụ nữ học mau chóng xâm nhập vào các giảng đường của trường đại học. Nhưng
đúng hơn có lẽ là bằng cách định nghĩa như vậy, người ta bày tỏ mong muôn khẳng
định rằng "Phụ nữ học" hay nghiên cứu phụ nữ cũng có vị trí như bất
kỳ môn học, ngành học, hay một lĩnh vực khoa học khác.
Thực ra vấn đề không phải là chuyện
từ ngữ, theo kiểu "tuy hai mà một". Thực chất nghiên cứu phụ nữ hay
phụ nữ học là vấn đề quan niệm về thân phận người phụ nữ trong xã hội và thực
tiễn phong trào phụ nữ.
Đọc thêm tại:
Đọc thêm tại: