Tuy vậy, đội ngũ cán bộ quản lý trong khu vực
nhà nước đang bộc lộ những hạn chế
cả về mặt số lượng và chất lượng, nhất là khi
đặt trước yêu cầu đổi mới và cơ cấu lại khu vực này.
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, vào đầu những năm năm 80, phụ nừ quản
lý doanh nghiệp chỉ chiếm dưới 5% trong tổng số các chức vụ lãnh đạo ( Bảng 5.4 )
Bẵng 5,4 : Tỷ lệ nữ trên tổng số các chức vụ
quản lý doanh nghiệp, 1981 (%)
Chức vụ
|
Số lượng
|
%
|
Giám
đốc xí nghiệp trung ương (*)
|
21
|
2,6
|
-
Phó giám đốc xí nghiệp trung ương *)
|
66
|
4,8
|
-
Giám đốc xí nghiệp địa phương (**)
|
16
|
1,8
|
- Phó giám đốc
xí nghiệp địa phương (**)
|
57
|
4,4
|
Nguồn : Báo cáo Đại hội phụ nữ Việt Nam lần thu 5, 1982. trang 78,
(*) Số liệu của 12 Bộ ngành; (**) Số liệu của *23 Tỉnh
thành.
Vào đầu những năm 90, cán bộ quản lý cấp cao như bộ,
thứ trưởng chiếm dưới 10% tổng số chức vụ và tập trung chủ yếu vào những lĩnh vực
xã hội như chăm sóc trẻ em, y tê, giáo dục. Các bộ, ngành chủ chốt như kê hoạch,
đầu tư, tài chính, ngân hàng, ... thường không có lãnh đạo nữ. Tỷ lệ cán bộ nữ
là tổng và phó tổng giám đốc các cơ sỏ kinh tế hiện còn quá thấp, chiếm dưới 5%
(Bảng 5.5 ).
Nữ quản lý chủ yếu phát huy đang năng lực ở cấp quản
lý cơ sở, địa phương với cương vị thường là phó, trợ giúp cho giám đốc là nam.
Cuộc nghiên cứu 260 doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh ở Hà Nội, thành phô"
Hồ Chí Minh và Hải Phòng do khoa Xã hội học và Tâm lý học thực hiện năm 1995
cho thấy, trong số hơn 260 nhà quản lý quan trọng nhất của doang nghiệp, nữ chỉ
chiếm khoảng 10%; trong khi đó, nữ chiếm gần 28% trong số hơn 250 chức vụ quản
lý được coi là quan trọng thứ hai của doang nghiệp.
Bảng 5.5 : số lượng và tỷ lệ nữ cán bộ quản lý năm 1992
|
Nguồn:
Văn kiện Đại hội phụ nữ Việt Nam lần thứ 7, trích theo ủy ban quốc gia về sự
tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, Số liệu thống kê về phụ nữ Việt Nam 1985- 1994, Hà Nội 1995, tr,144.
Năm 1993, số lượng
nữ
cán bộ quản lý có tăng lên ở một số ngành. Tuy nhiên, tỷ lệ vẫn còn thấp, ỉại tập
trung nhiều vào cấp phó. Tình trạng này là phổ biến không chỉ đôi với những
ngành tương đối ít lao động nữ như ngành Năng lượng mà ngay cả ở những ngành
đông nữ như ngành Thương mại. Năm 1993, có 11,2% nữ giám đốc và 8% nữ tổng giám
đốc trên tổng số chức vụ ngành Thương mại, tỷ lệ cấp phó là nữ tương ứng là
12,0% và 14,0% , con số này của ngành Năng lượng là thấp hơn. (Bảng 5.6 ).
(Tiếp phần sau…..)